
-1-
Mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096) ngày Rằm tháng Hai, Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái hậu (2) đến chùa Khai Quốc thiết lễ trai tăng, Thái hậu đã hỏi: - Sự truyền thừa của hai tông phái ấy như thế nào? Sư Thông Biện đáp: - Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì nay có Lâm Huệ Sinh, Vương Chân Không. Phái Vô Ngôn Thông thì có Mai Viên Chiếu, Nhan Quảng Trí. Dòng của Khương Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch. Ngoài ra những phái phụ thì nhiều không kể xiết. Thiền sư Thông Biện đã tôn vinh Quốc sư Huệ Sinh lên hàng đầu, chứng tỏ sự kính trọng Huệ Sinh, không những là một nhà Phật học xuất sắc, mà còn là một nhà tư tưởng lớn lúc bấy giờ. Quốc sư Huệ Sinh, người quê ở làng Đông Phù Liệt, Thăng Long từ nhỏ đã là một thần đồng, đến tuổi thiếu niên sớm theo hầu Thiền sư Vạn Hạnh. Năm 19 tuổi, ông xuất gia lên thiền tu tại chùa Cổ Pháp và Quang Hưng, Bắc Ninh. Khi tu pháp đạt đến chính quả, Huệ Sinh được Thiền sư Định Huệ và Thiền sư Vạn Hạnh truyền tâm ấn đứng đầu thế hệ thứ 13 thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Đại Việt. Khi vừa tròn 25 tuổi, Thiền sư Huệ Sinh đã cùng Thân vệ Lý Công Uẩn, Chu hậu Đào Cam Mộc trực tiếp tham gia cuộc chính biến Hoa Lư năm Kỷ Dậu (1009) lật đổ ông vua Lê Ngọa Triều, tôn vinh Thân vệ Lý Công Uẩn lên ngôi vua Lý Thái Tổ, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập tự do lâu dài của nước Đại Việt.
-2-
Nghe tin Thiền sư Huệ Sinh đã về nước, vua Lý Thái Tông vui mừng cho lính hầu lên mời sư về cung. Sau khi tiếp nhận Thánh chỉ, Thiền sư đã đáp lời viên lính hầu rằng: - Ngươi không thấy con vật làm cỗ tế hay sao? Khi chưa tế thì được ăn ngon mặc đẹp, đến khi bị dắt vào nhà Thái Miễu thì dẫu muốn sống thêm ít ngày cũng không thể được. Vật tế còn như vậy, các vật khác có khác gì? (*) Rồi sư cố từ chối không về kinh. Vua bắt sứ giả lại phải đến mới lần nữa, sư mới chịu về. Lý Thái Tông cả mừng, phong sư Huệ Sinh giữ chức Nội cung phụng tăng và ban sắc chỉ cho sư trở lại trụ trì chùa Vạn Tuế. Một hôm nhân mở tiệc trong đại nội, vua nói: (*) - Trẫm nghĩ nguồn tâm của Phật tổ, người học thường hay chê bai. Trẫm muốn cùng các vị cao đức gần xa mỗi người đều bày tỏ ý kiến của mình để xem cái dụng tâm của từng người như thế nào? Sư bèn ứng khẩu đọc bài kệ như sau: TÂM NGUYỆN Pháp bản như vô pháp Phi hữu, diệc phi không Nhược nhân tri thử pháp Chúng sinh dữ Phật đồng Tịch tịch Lăng già nguyệt Không không độ hải chu Tri không, không giác hữu Tam muội nhậm thông chu Dịch: Pháp vốn như vô pháp Không có cũng không không Nếu người hay phép đó Chúng sinh với Phật đồng Trăng Lăng già vắng lặng Thuyền vượt biển trống không Biết “không không” hiểu “có” Tam muội cứ suốt thông. HÀ VĂN TẤN (LSPGVN) Vua khen ngợi, ban thưởng rất trọng hậu và phong lên chức Đô Tăng Lục, để trông nom phát triển Phật đạo Đại Việt. Để phổ cập tri thức, Thiền sư Huệ Sinh đã giành nhiều thời gian, dày công biên soạn hai bộ sách quý Pháp sự trai nghi, Chư đạo tràng khánh tản văn (nhiều tập) lưu hành ở đời. Xem ra Quốc sư Huệ Sinh là một danh tăng nổi tiếng đầu thời Nhà Lý. Không những có công cùng Thiền sư Vạn Hạnh xây dựng nhà Lý, mà Quốc sư còn là một học giả uyên bác. Vì thế Quốc sư là nơi để các Vương gia, các quan đại thần, các cao tăng như Phụng Kiền Vương, Uy Vũ, Hỉ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh, Nguyên Phi Ỷ Lan, vua Lý Thái Tông, vua Lý Thánh Tông, Hiển Minh thái tử, thượng tướng Vương Công Tại, thái sư Lương Nhâm Văn, thái bảo Đào Xử Trung, tham chính Kiều Bồng…đều tìm đến thỉnh vấn, mời sư chủ trì các cuộc lễ (*) Đến triều đại Lý Thánh Tông, nhà vua đã tấn phong Thiền sư Huệ Sinh lên chức Quốc sư và ban tặng tước hầu. Khi vào chầu chỉ gọi là Tăng Thống, mà không gọi tên.-3-
Trở lại cuộc hội thoại giữa Hoàng Thái hậu với Thiền sư Thông Biện trong buổi lễ trai tăng tại chùa Khai Quốc. Để hiểu rõ thời gian và những con đường đạo Phật đã du nhập vào nước ta, Hoàng Thái Hậu hỏi: (*) - Về giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái Thiền tông thì có gì chứng thực không? Đến nước ta từ bao giờ? Thiền sư Thông Biện đáp: - Xét truyện Đàm Thiên pháp sử chép rằng, vua Tùy Cao Tổ (581-604) bảo sư Đàm Thiên chọn những vị sa môn có danh đức sang Giao Châu giáo hóa Phật pháp cho dân nước ta. Pháp sư Đàm Thiên bèn tâu: sử Giao Châu đã có đường thông với Tây Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông (Trung Hoa) thì ở Luy Lâu (nước ta) đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, có hơn năm trăm vị Tăng sư và đã dịch được mười lăm quyển kinh Phật. Ví như, Sư Ma Ha Ky Vực, người nước Ấn Độ đã đến truyền đạo và xây chùa (chùa Dâu) ở Luy Lâu từ những năm 168-169. Như vậy là, Phật giáo đã có ở xứ Giao Châu ta từ lâu rồi (*)
-4-

THAM KHẢO: - Sách Thiền Uyển Tập Anh, NXB Tôn Giáo-2013 - Sách Hoa Bất Tử - Nguyễn Thượng Hiền, NXB Hà Nội-2017 - Tạp chí Phật học 2017-2018, cơ quan ngôn luận GHPGVN - Tạp chí Khuông Việt 2016-2017, Học viện Phật giáo Hà Nội (1) Nguồn: trang 25 sách Thiền Uyển Tập Anh, NXB Tôn giáo 2013 (2) Là bà Nguyên Phi Ỷ Lan (3) Nguồn: trong sách Hoa Bất Tử - Nguyễn Thượng Hiền, NXB Hà Nội 2017 (*) Nguồn: trích trong bài Quốc sư Thông Biện và bài Tăng thống Huệ Sinh trong sách Thiền Uyển Tập Anh
Bình luận (0)